Điều trị Bệnh Phổi tắc nghẽn mạn tính ~ Sức khỏe Bệnh Phổi

Điều trị Bệnh Phổi tắc nghẽn mạn tính

Bệnh Phổi tắc nghẽn mạn tính cần điều trị lâu dài, thường xuyên, mục tiêu là ngăn chặn đợt bùng phát của bệnh và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Các bác sĩ có thể cho rằng bạn cần phải dùng thuốc để giảm bớt các triệu chứng của bệnh.

Điều trị Bệnh Phổi tắc nghẽn mạn tính bao gồm

Cai thuốc lá là yêu cầu cần thiết để loại bỏ yếu tố nguy cơ




Corticoid hít

Một số người bị COPD đáp ứng tốt với corticoid đường uống có thể duy trì trong thời gian dài với corticoid hít.
Việc sử dụng loại thuốc này rất phổ biến mặc dù bằng chứng về hiệu quả của nó đối với COPD cũng rất ít. Corticoid không làm chậm lại quá trình suy giảm chức năng phổi. Tuy nhiên, chúng làm giảm tần số xuất hiện cơn và cải thiện tính chất bệnh cùng với chất lượng sống ở một số bệnh nhân COPD.
Corticoid dạng hít có ít tác dụng phụ hơn dạng uống, nhưng chúng cho hiệu quả thấp hơn, ngay cả khi được sử dụng với liều cao.

Thuốc đồng vận Beta 2 - thuốc giãn phế quản

Thuốc giãn phế quản đồng vận beta 2 dạng hít có tác dụng làm giãn và thông đường thở. Chúng có tác dụng nhanh, thường là trong vài phút.
Thuốc đồng vận beta 2 được dùng chủ yếu để giảm triệu chứng của COPD. Đồng vận beta 2 dạng hít là cách điều trị lựa chọn cho cơn COPD cấp.
Có 2 loại đồng vận beta 2 tác dụng kéo dài (formoterol, salmeterol) được sử dụng. Chúng có thể có ích nếu như bạn thường dùng loại tác dụng ngắn hoặc bạn thấy xuất hiện triệu chứng vào ban đêm.

Thuốc ức chế đối giao cảm - giãn phế quản

Duy trì điều trị bằng thuốc kháng đối giao cảm dạng xịt (ipratropium bromide) có thể sẽ hiệu quả hơn đồng vận beta 2 đối với những bệnh nhân COPD, đặc biệt trong việc giảm thở hụt hơi.
Ipratropium bromide làm thông đường thở nhưng có ít tác dụng phụ.
Nó được cho dưới dạng bình xịt có định liều, khoảng 2 - 4 nhát, 4 lần mỗi ngày. Có thể cho thêm đồng vận beta 2 nếu cần thiết.
Mặc dù nó cho tác dụng chậm hơn đồng vận beta 2 dạng hít (khoảng 30 - 60 phút), nhưng tác dụng của nó lại kéo dài hơn. Do đó nó không thích hợp để dùng với mục đích khẩn cấp.
Những người bị cơn COPD cấp đáp ứng tốt với đồng vận beta 2 dạng hít và kháng đối giao cảm dạng xịt. Việc điều trị thường là bắt đầu với việc cho đồng vận beta 2 dạng hít qua máy xông. Cho thuốc dạng này cũng làm giảm tác dụng phụ. Ipratropium bromide dạng xịt cũng thường có thể được thêm vào.

Thuốc dãn phế quản tác dụng kéo dài

Methylxanthine, chẳng hạn như theophylline, là một nhóm thuốc có liên quan đến caffein. Chúng tác động trên bệnh COPD bằng cách làm thông đường thở. Ngoài ra, methylxanthine làm giảm viêm, cải thiện chức năng cơ hô hấp, kích thích trung tâm hô hấp của não.
Thêm theophyline vào nhóm thuốc dãn phế quản có thể có ích mặc dù đáp ứng với theophyline khác nhau tùy theo mỗi bệnh nhân. Tuy nhiên người ta ngày càng ít sử dụng chúng trong thập kỷ vừa qua do nguy cơ xảy ra những tác dụng phụ không mong muốn. Những tác dụng phụ bao gồm: bứt rứt, run giật, buồn ngủ, nôn ói, loạn nhịp tim và đột quỵ.

Corticoid dạng uống

Corticoid được dùng với những người không cải thiện sau khi đã dìmh các loại thuốc khác hoặc những người đang lên cơn cấp tính.
Corticoid dạng uống được dùng điều trị thành công ở những người bị cơn cấp tính. Chúng cải thiện triệu chứng và chức năng của phổi trong những trường hợp này. Corticoid dạng uống thường không được khuyến khích dùng trong thời gian dài do những phản ứng phụ của chúng.

Kháng sinh

Những bệnh nhân COPD thường hay bị nhiễm trùng đường hô hấp dưới, mục đích của kháng sinh không phải là để ngăn chặn vi trùng mà là điều trị những cơn cấp.
Điều trị bằng kháng sinh có lợi cho những người bị cơn cấp với ít nhất 2 trong số những triệu chứng sau (tiêu chuẩn Winnipeg): thở hụt hơi tăng nhiều, tăng sản xuất đàm, tăng xuất tiết đàm.
Loại thuốc được lựa chọn đầu tiên bao gồm amoxicillin, cefaclor, hoặc trimethoprim/sulfamethoxazole. Thứ hai là azithromycin, clarithromycin, và fluoroquinolone.

Thuốc long đờm

Thuốc làm loãng đàm không chỉ làm giảm độ đặc của đàm mà còn tăng độ thanh thải của nó nữa.

Oxy

COPD thường đi kèm với thiếu oxy máu.
Trong nhiều trường hợp, triệu chứng thiếu oxy máu không xuất hiện lúc bệnh nhân nghỉ ngơi mà là vào lúc họ gắng sức. Ngay cả khi những nghiên cứu xác định ích lợi lâu dài của việc thở oxy đơn độc đối với các hoạt động thể lực vẫn chưa được tiến hành thì việc cho thở oxy tại nhà vẫn thường được các bác sĩ khuyên dùng đối với những người bị giảm oxy máu khi gắng sức. Thở oxy khi gắng sức có thể giúp làm tăng áp lực động mạch phổi, giảm triệu chứng thở hụt hơi và tăng khả năng vận động.
Việc thở oxy đối với những bệnh nhân COPD cũng có thể cần thiết trong khi đi máy bay do áp suất trong cabin máy bay thấp. Bạn có thể chuẩn bị cho chuyến bay bằng cách thở oxy trước khi khởi hành.
Những bệnh nhân COPD bị thức dậy giữa chừng bởi những triệu chứng của nó cũng có thể cần phải thở oxy.
Thở oxy thường thì an toàn. Người ta đã nhận biết được độc tính của oxy liều cao, nhưng vẫn tìm thấy rất ít những tác hại lâu dài của thở oxy liều thấp. Do việc thở oxy lâu dài làm giảm tỷ lệ tử vong với những người bị COPD nặng, tăng khả năng sống còn và chất lượng sống đã lấn át những nguy cơ có thể xảy ra.
Mối nguy hiểm lớn nhất của liệu pháp này là cháy và nổ. Những bệnh nhân COPD, gia đình, và người chăm sóc không nên hút thuốc khi máy thở oxy đang được sử dụng. Tuy nhiên, xét trên tổng thể thì những tai nạn lớn thường hiếm gặp và có thể tránh nếu được huấn luyện kỹ càng.

0 comments :

Post a Comment